Thứ Sáu, 16 tháng 11, 2012

KHI NÀO NÊN SỬ DỤNG " NGUỒN" BẢO TRỢ PHÁT NGÔN TRONG THÔNG ĐIỆP QUẢNG CÁO

Theo hai tác giả  Rossiter & Percy , nguồn bảo trợ phát ngôn  ( In- ad presenter) luôn tồn tại dưới nhiều hình  thức khác nhau trong bất cứ trong thông điệp quảng cáo nào. Để đơn giản cho việc ứng dụng, hai tác giả đã phân chia thành hai loại tình huống quảng cáo mà ở đó việc sử dụng In-ad presenter là cần thiết.

Khi một quảng cáo cần phải đẩy được 1 hay nhiều hơn 1 mục tiêu truyền thông.

Nguyên tắc cơ bản khi sử dụng Prenter trong trường hợp này là phải công cụ " khuếch đại âm thanh" để mục tiêu truyền thông của quảng cáo đạt được hiệu quả cao. Đặc điểm tính cách cá nhân của Presenter có tác dụng khuếch đại những hiệu ứng truyền thông sau : (1)  nhận biết thương hiệu ( cả hai hiệu ứng brand recall & brand recognition); (2) thái độ với thương hiệu ( 4 loại thái độ) và (3) dự định mua. Vai trò của Presenter lúc này là 1 phương tiện chuyển tải thông điệp (theo phương pháp RAM - Conveyor) và  ý tưởng sáng tạo của thông điệp quảng cáo loại này tập trung chính vào bản thân Presenter.

      (1) Nhận biết thương hiệu - Brand Awareness
      Lựa chọn presenter có mức độ nổi tiếng rộng rãi sẽ đạt được ý định dễ làm gia tăng mức độ nhận biết thương hiệu được quảng cáo. Mặc dù về cơ bản đây là 1 quyết định đúng, người làm quảng cáo vẫn cần phải cân nhắc cẩn trọng khi sử dụng presenter, presenter nổi tiếng không  thu hút được sự chú ý của phần lớn  khán thính giả mục tiêu  đến thương hiệu và thực tế là làm giảm đi mức độ chú ý đến thương hiệu trong thông điệp được quảng cáo. Hiệu ứng này được gọi là "hiệu ứng ma cà rồng " ( vampire effect) vì sự quá  nổi tiếng của các presenters nên khán thính giả mục tiêu chỉ tập trung chú ý đến bản thân họ mà  không có đủ sự chú ý cần thiết đến thương hiệu, bao bì hay tên gọi của SP/DV mà các presenter lẽ ra phải "khuếch âm" chúng lên.
    Hơn nữa, các quảng cáo sử dụng presenter cần phải gắn chặt với chiến thuật nhận biết thương hiệu, cụ thể là chiến thuật nhận ra thương hiệu ( brand recognition) và chiến thuật nhớ đến thương hiệu ( brand recall).
     Đối với chiến thuật nhận ra thương hiệu, quảng cáo sử dụng presenter phải có tác dụng tạo ra sự liên tưởng và  kết nối mạnh mẽ trực tiếp giữa presenter với tên thương hiệu hay bao bì SP ( ví dụ như sử dụng hình ảnh hay tên tuổi của presenter trên bao bì SP chẳng hạn). Chiến thuật này thường thành công khi các nhà làm quảng cáo sử dụng khéo léo hình ảnh những người nổi tiếng làm tăng sự nhận biết thương hiệu mà họ đại diện ( ví dụ:  Mỹ Linh - mì Omachi, Hà Hồ - đt thông minh Samsung S3...).
     Không dễ dàng thực thi như chiến thuật nhận ra, sử dụng presenter trong quảng cáo khó tạo ra hiệu ứng nhớ đến thương hiệu trước khi họ đi mua cái gì đó. Sự xuất hiện của presenter trong thông điệp hay trên bao bì SP đôi khi không tạo ra được mối liên hệ trực tiếp nào trong sự nhận biết về nhu cầu chủng loại sản phẩm ( Category Needs) và bản thân presenter. Trong một số trường hợp, khán thính giả mục tiêu còn nhận thấy sự giả tạo khi gượng ép hình ảnh presenter nổi tiếng nào đó với 1 sản phẩm ít có liên quan  đến nhu cầu công việc hay cuộc sống của chính họ ( Trọng tài bóng đá Võ Minh Trí quảng cáo máy phát điện). Sử dụng một người nổi tiếng thành công trong vai trò của 1 presenter làm tăng khả năng nhớ đến TH khi người làm quảng cáo xử lý thích hợp sự gợi ý liên tưởng giữa nhu cầu chủng loại SP và tên thương hiệu mà họ là presenter ( VD: Hiệp hội SP Sữa quốc tế đã sử dụng hình ảnh Sêu Mẫu Noami Campell trong chiến dịch cổ động người dân sử dụng Sữa ít béo " Milk - what a suprise).
     Tuy nhiên, giới học thuật lẫn giới thực hành marketing đều tin rằng sử dụng người nổi tiếng làm presenter cho thông điệp quảng cáo sẽ tạo hiệu ứng tốt hơn trong chiến thuật nhận ra thương hiệu. 

     (2) Thái độ với  thương hiệu - Brand Attitude    
     In-ad Presenter được những nhà làm quảng cáo sử dụng phổ biến trong chiến thuật xây dựng và duy trì thái độ của khán thính giả mục tiêu hướng đến thương hiệu. Nguyên tắc chủ đạo trong chiến thuật này là tạo ra/ củng cố niềm tin về (những) lợi ích của thương hiệu mà các presenter này bảo trợ. Có 2 cách phổ biến để thực thi chiến thuật này:
     - Nói đến lợi ích bằng cách đề cao 1 cách cực đoan, quá       khích hay tột bực. Cách này  phù hợp đối với các  thương hiệu  được đánh giá có mức độ rủi ro thấp khi chuyển đổi (low-involvement)  với cả 2 lý do mua tiêu cực hay tích cực ( informational và transformational).
     - Làm giảm bớt các ý kiến trái chiều trong trường hợp các thương hiệu được khách hàng mục tiêu đánh giá có mức độ rủi ro cao khi chuyển đổi (high-involvement)  với  lý do mua tiêu cực ( informational). Các thương hiệu này đang nhận được thái độ bất lợi từ khách hàng nên cần phải dựa vào " ý kiến của chuyên gia" với vai trò là presenter ( Trà  Dr.Thanh không đường và chiến dịch quảng cáo tài trợ  Hiệp hội đái tháo đường quốc gia)
     Thúc đẩy thái độ đối với thương hiệu bằng quảng cáo sử dụng presenter, nhà quảng cáo cần phải chọn lọc kỹ lưỡng tính cách của các presenter. ( Tác giả sẽ bàn chi tiết hơn trong bài viết kế tiếp của loạt bài  này).

      (3) Dự định mua thương hiệu - Brand Purchase intention
      Thỉnh thoảng, nhưng hơi hiếm,  vai trò của in-ad presenter tạo ra dự định mua SP nơi khán thính giả mục tiêu của thông điệp quảng cáo bằng chiêu thức " sức mạnh cưỡng chế" ( power coercive). Những presenter có cá tính mạnh mẽ thực sự phù hợp với tính cách của thương hiệu mà họ đại diện mới có khả năng khơi gợi sự sẵn sành mua hàng khi họ nhìn thấy thông điệp quảng cáo ( Lady Gaga quảng cáo nước hoa "Lady Gaga Fame")  

Khi khán thính giả mục tiêu bị quá tải thông tin về  1 chủng loại sản phẩm nào đó.

Một tình huống khác cần phải cân nhắc sử dụng in-ad presenter khi  phải quảng cáo 1 loại SP/DV có lợi ích đa dạng phức tạp  đến nhóm khán thính giả mục tiêu là những người không phải chuyên gia trong lĩnh vực. Presenter trong trường hợp này là các chuyên gia hay các nguồn thông tin đáng tin cậy sẽ có thể cứu rỗi người tiêu dùng ra khỏi tình trạng "chết ngộp vì thông tin" bằng cách  đưa ra lời khuyên tạo sự nhận biết về lợi ích dễ dàng hơn ( Ví dụ:  Colgate Total - kem đánh răng được các nha sĩ khuyên dùng).

SỬ DỤNG MÔ HÌNH VisCAP LỰA CHỌN IN-AD PRESENTER --> đón xem

    
     
    





Thứ Sáu, 9 tháng 11, 2012

PHƯƠNG PHÁP SỬ DỤNG NGUỒN BẢO TRỢ PHÁT NGÔN TRONG THÔNG ĐIỆP QUẢNG CÁO (1)

Về khái niệm , quảng cáo là một loại thông điệp được bảo trợ chủ quan phát đi bởi người quảng cáo. Nhìn quảng cáo  từ khía cạnh của khán thính giả, họ luôn hoài nghi tính khách quan của các thông điệp này và  có xu hướng tìm kiếm xem có hay không các "nguồn" ( tên gọi khác của người  trình bày hay đại diện phát ngôn cho thương hiệu)  bảo trợ độc lập khác  để định hình thái độ đối với thương hiệu được chuyển tải trong thông điệp.


Khi lập kế hoạch cho 1 chương trình quảng cáo, bên cạnh việc phải cân nhắc lựa chọn các chiến thuật để chuyển tải thông điệp sáng tạo và hiệu quả những nhà hoạch định quảng cáo cũng phải quyết định xem khi nào nên sử dụng "nguồn"  bảo trợ phát ngôn cho thương hiệu ( Presenter) và chọn lựa "nguồn" như thế nào?

Các chủ thể được sử dụng như một "nguồn" bảo trợ phát ngôn trong thông điệp quảng cáo khá đa dạng:  ngành công nghiệp, chủng loại sản phẩm, công ty,  thương hiệu sản phẩm nổi tiếng, phương tiện truyền thông, 1 cá nhân hay nhân vật nào đó....Những "nguồn"nói trên đều có thể tạo ra một sự liên tưởng giúp dẫn đường hay định hướng thái độ của khán thính giả dành cho thương hiệu. Hiệu ứng "nguồn" bảo trợ phát ngôn có mặt ở hầu hết các thông điệp quảng cáo tuy ở mức độ ít nhiều khác nhau. Khi muốn tác động đến thái độ của khán thính giả về 1  loại sản phẩm mới người ta thường sử dụng "nguồn" bảo trợ phát ngôn là ngành công nghiệp hay chủng loại sản phẩm, nếu muốn nhấn mạnh vào 1 lợi ích đặc biệt mà có ở  1 thương hiệu đặc biệt nào đó người ta có thể sử dụng "nguồn" bảo trợ phát ngôn là tên thương hiệu ( ví dụ: các máy tính thường nhấn mạnh đến  yếu tố con chip" Intel inside"), hình thức quảng cáo phản hồi trực tiếp thường chú trọng đến "nguồn" bảo trợ phát ngôn là công ty hay tập đoàn. Trong phạm vi bài phân tích này, tác giả chỉ tập trung vào phương pháp sử dụng "nguồn" bảo trợ phát ngôn là các cá nhân hay những nhân vật - được định nghĩa là  "người hay nhân vật phát ngôn về  lợi ích của thương hiệu trong thông điệp quảng cáo".  

Loại "nguồn" bảo trợ phát ngôn này cũng rất đa dạng về đặc điểm và xuất xứ: người nổi tiếng, chuyên gia, nhận vật được tạo ra đặc thù ( có thể là con người hay nhân vật hoạt hình), những người đại diện cho 1 kiểu  lối sống nào đó, những người ẩn danh hay chỉ có giọng nói xuất hiện trên thông điệp.... Tính cách của những cá nhân hay nhân vật nói trên đều được lựa chọn có chủ đích và luôn nằm trong ý định được gọt dũa xử lý để thích hợp với thông điệp mà họ là người phát ngôn. Quyết định quan trọng liên quan đến "nguồn" bảo trợ phát ngôn này là làm sao để những đặc điểm tính cách  của " nguồn" tác động đến toàn bộ quá trình người nhận xử lý thông điệp quảng cáo , tạo ra ảnh hưởng đến mục tiêu truyền thông và định vị thương hiệu theo cách mà người hoạch định mong muốn.

Khi nào cần sử dụng "nguồn" bảo trợ phát ngôn ?  -> đón xem



Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH MARKETING 3.0 - NGUỒN GỐC CỦA SỰ ỔN ĐỊNH: MỘT SỨ MỆNH ĐÚNG ĐẮN & GIÁ TRỊ CỐT LÕI CỦA DOANH NGHIỆP

" Tôi đã cống hiến toàn bộ sức lực và khả năng để lập nên một công ty bán lẻ 
tốt nhất có thể. Chấm hết. Còn việc làm nên 1 gia sản kếch xù cho bản thân chưa bao giờ là mục đích của tôi"
                                                                SAM WALTON - Người sáng lập chuỗi siêu thị Wal-Mart


" Cam kết của chúng tôi là duy trì sức sống của công ty - bao gồm cả sự phát triển  theo nghĩa vật chất lẫn sự phát triển  như là 1 thể chế - sao cho công ty này, thể chế này tiếp tục tồn tại thêm 150 năm nữa. Thật sự, như thế nó sẽ tồn tại qua nhiều thời đại

                                                               JOHN G. SMALE - cựu CEO, Procter & Gamble, nhân dịp
                                                                                            kỷ niệm 150 năm thành lập P&G, 1986

" Điều kỳ diệu ở công ty Ford là việc đặt lợi nhuận đằng sau con người & sản phẩm" 

                                                              DON PETERSEN - nguyên CEO hãng FORD 


" Disneyland sẽ không bao giờ hoàn thành (mục tiêu) chừng nào mà sự tưởng tượng còn tồn tại trên thế giới này"                                 WALT DISNEY - Người sáng lập tập đoàn  DISNEY 



Disney, P&G, Ford, Wal-mart, Sony, H-P..... đều là những công ty hàng đầu thế giới  và đều có thể  là  những thương hiệu trong mơ của nhiều doanh nhân về mẫu hình khởi nghiệp ấn tượng và quản trị kinh doanh hiệu quả bền vững. 


Về  mặt khái niệm, những công ty hàng đầu có sự khác biệt rất lớn với những công ty còn lại ở  điểm then chốt  sau: là cần phải vượt lên khỏi sự phụ thuộc vào 1 nhà lãnh đạo hay 1 ý tưởng cụ thể dù là to lớn đến đâu đi nữa. Phía sau của sự  thành công và trường tồn  của những công ty này  luôn là một bộ giá trị cốt lõi bền vững, một mục tiêu dài hạn  vượt xa và  lên trên khỏi mục tiêu lợi nhuận đơn thuần.  Những thay đổi nhanh chóng của thị trường cũng tác động rất mạnh đến sự thay đổi liên tục của các công ty dẫn đầu này,  tuy nhiên sự độc đáo khác biệt của họ là vẫn phải gìn giữ những giá trị cốt lõi và mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp qua nhiều giai đoạn thời gian.


Lật lại từng trang lịch sử  của các thương hiệu dẫn đầu, không phải công ty nào cũng có những ý tưởng kinh doanh kiệt xuất lúc vừa khởi nghiệp, một bản kế hoạch tài chính lợi nhuận rõ ràng và đi thẳng một  lèo đến đỉnh vinh quang rực rỡ. 
Công ty HP là 1 trong những ví dụ như vậy, HP đã có 1 khởi đầu rất khiêm tốn vào năm 1937 bằng sự hợp tác của 2 kĩ sư trẻ ngoài 20 tuổi mới ra trường, với ý định cùng nhau thành lập 1 công ty với số vốn US $500  hoạt động trong 1 lĩnh vực rộng lớn về kỹ thuật điện tử. Cả hai đã phải làm đủ thứ để kiếm tiền thanh toán các hóa đơn điện nước trong gara xe mà họ khởi nghiệp, từ thiết bị dội nước toilet tự động cho đến đèn xi-nhan gắn trong quả bóng bowling.....Họ đã gặp 1 loạt thất bại, các sản phẩm đầu tiên cũng thành công hết sức hạn chế. MẶc dù vậy, hai nhà sáng lập Bill Hewlett & Dave Packard vẫn không ngừng tìm kiếm, kiên trì thử nghiệm cho đến khi tìm ra được cách xây dựng  một doanh nghiệp thể hiện được các giá trị cốt lõi mà họ theo đuổi, đạt được những thành tựu to lớn hơn thông qua các SP điện tử nổi tiếng sau này. Vốn là 2 kỹ sư, họ hoàn toàn có thể theo đuổi mục đích của mình như là các kỹ sư chân chính, nhưng họ đã không chọn cách làm việc như vậy. Thay vì thiết kế các sản phẩm kỹ thuật, họ tập trung để thiết kế nên 1 tổ chức, tạo ra các môi trường làm việc để có thể tạo ra những sản phẩm thành công. Trong 1 buổi trả lời phỏng vấn báo chí, phóng viên đã hỏi  Dave Packard xem đâu là quyết định  về sản phẩm quan trọng nhất của ông. Câu trả lời không hoàn toàn liên quan đến 1 sản phẩm cụ thể nào, mà là các quyết định liên quan đến tổ chức, quản trị nhân sự, chính sách tài chính  và triết lý quản trị công ty kiểu HP ( HP way)... Sau này, người phóng viên đã đặt tiêu đề cho bài báo  là "  các nhà lãnh đạo  của HP xây dựng công ty bởi sự thiết kế kỹ lưỡng, còn sản xuất ra máy tính HP  một cách tình cờ".

Sản phẩm đầu tiên của hãng Sony là một chiếc nồi cơm điện không chạy được 1 cách suôn sẻ và sản phẩm chính là chiếc máy ghi âm thì bị thị trường từ chối. Những người sáng lập ra Sony đã phải làm đủ thứ loại sản phẩm trông rất thô kệch khác để bán lấy tiền cho công ty sống qua thời kỳ khó khăn nhất. Sau này Masaru Ibuka 1 trong hai sáng lập viên của Sony đã nói " sản phẩm lớn nhất của SONY không phải là Walkman, TV Trinitron hay Playstation , mà chính là công ty SONY và những gì mà nó đại diện"  

Cũng giống vậy,sáng tạo lớn nhất của Walt Disney không phải là những bộ phim hoạt hình thành công hay công viên giải trí Disneyland, mà đó chính là hãng Disney và khả năng kỳ diệu của nó: đem lại niềm vui cho mọi người.

Phương pháp thực hành MArketing 3.0 đã nhấn mạnh đến yếu tố quan trọng nhất của doanh nghiệp muốn thành công  phải bắt đầu bằng một sứ mệnh thương hiệu tốt, chân chính, phù hợp  tạo ra 1 viễn cảnh kinh doanh mới - thứ có thể tạo ra sự thay đổi tốt đẹp hơn cho cuộc sống của người tiêu dùng chứ không phải mang đến bao nhiêu đồng lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp. 

Chúng ta đang sống trong 1 thế giới liên tục biến động, ngày càng phức tạp và mơ hồ, bất kỳ ai quá phụ thuộc vào môi trường bên ngoài để tìm kiếm sự ổn định và khi gặp những rủi ro họ sẽ nhanh chóng cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, mất niềm tin về cuộc sống. Nguồn gốc của sự ổn định chính là các giá trị cốt lõi bên trong mạnh mẽ cộng với sự sẵn sàng thay đổi cho phù hợp với môi trường bên ngoài trừ những điều cốt lõi. Bạn thử hình dung xem,  trên  trang quảng cáo của  1 tờ nhật báo tại Tokyo  ngày 7/5/1946, Masaru Ibuka đã trình làng với thế giới tư tưởng cốt lõi của SONY như sau:
Nếu có thể thiết lập các điều kiện theo đó con người có thể gắn kết với tinh thần làm việc theo nhóm và có thể thể hiện tối đa khả năng kỹ thuật của họ...thì một tổ chức như vậy có thể đem lại niềm vui và hạnh phúc lớn lao..những ai suy nghĩ như thế sẽ tập hợp  với nhau 1 cách hoàn toàn tự nhiên để thực hiện các lý tưởng này...
MỤC TIÊU CỦA SONY
  • Thiết lập nơi làm việc mà ở đó các kỹ sư có thể cảm thấy niềm vui của cải tiến công nghệ, ý thức được nhiệm vụ đối với xã hội và làm việc cho đến khi bản thân cảm thấy hài lòng  
  •  Theo đuổi các hoạt động năng động trong công nghệ và sản xuất nhằm tái thiết Nhật bản cũng như nâng cao nền văn hóa của đất nước
  •  Áp dụng công nghệ cao vào đời sống đại chúng của xã hội
HƯỚNG DẪN VỀ QUẢN LÝ CỦA SONY
  • CHúng tôi loại bỏ hoàn toàn bất cứ sự theo đuổi lợi nhuận bất công nào, nhấn mạnh việc đòi hỏi công việc thực chất và không chỉ theo đuổi tăng trưởng đơn thuần.
  •  CHúng tôi chấp nhận các khó khăn về kỹ thuật, tập trung vào các sản phẩm  với kỹ thuật cao, hữu dụng đối với xã hội, dù số lượng ít hay nhiều đi nữa.
  •  Chúng tôi cam kết hướng về khả năng, mức độ hoàn thành công việc cũng như những tính cách cá nhân nhằm tạo điều kiện để mỗi cá nhân thể hiện tối đa khả năng và kỹ năng của mình.
Những ý thức về giá trị cốt lõi , sứ mệnh và mục tiêu mà SONY theo đuổi đã được những người sáng lập ra công ty hiểu rất rõ ràng ngay từ lúc còn  khó khăn để kiếm cho đủ lượng tiền mặt  hoạt động. Bài học của SONY đã cho chúng ta hiểu rõ hơn rằng:  khi thế giới luôn bất ổn và khó có thể tiên đoán trước điều gì, vấn đề hiểu rõ mình đi về đâu không khôn ngoan bằng hiểu rõ mình là ai tại sao mình tồn tại,  vì hướng đi chắc chắn sẽ  thay đổi liên tục - đây cũng chính là điểm chung nhất trong sự thành công của các thương hiệu dẫn đầu thế giới.  




ĐỊNH NGHĨA LẠI NHỮNG PHƯƠNG PHÁP THỰC HÀNH MARKETING


Marketing thực hành rất khác so với những gì đã được đề cập trong các giáo trình Marketing mà chúng ta đã từng đào xới rất kỹ trên các giảng đường. Có thể nói Marketing là 1 cuộc vật lộn thực sự với thị trường khắc nghiệt  và khó tính -  nơi mà khách hàng thật sự khan hiếm chứ không phải là hàng hóa - theo mô tả của các tác giả Bước Chuyển Marketing.

Sự thật là các doanh nghiệp đều ý thức được những thay đổi xảy ra liên tục trên thị trường, tuy nhiên vấn đề cốt lõi nhất lại là chính  tốc độ thay đổi:   thị trường  thay đổi nhanh hơn nhiều so với sự  thay đổi  trong tư duy của chúng ta. Nhà quản trị rất cần phải trang bị lại hành trang cho bản thân cũng như cho doanh nghiệp mình bằng những triết lý về kinh doanh và marketing hiện đại hơn, có tầm nhìn và mục tiêu vượt xa hơn là những suy nghĩ chuẩn mực hiện hành. Marketing 3.0 chính là công cụ đối thoại  cần thiết giúp doanh nghiệp làm hẹp đi khoảng cách giữa họ và khách hàng của mình.

Marketing 3.0 hướng đến tinh thần của người tiêu dùng
Vượt  lên trên những giới hạn truyền tải những thông điệp marketing thuần túy mang tính chất thương mại, Marketing 3.0 sẽ làm cho doanh nghiệp nhận diện và chuyển giao chính xác những giá trị của doanh nghiệp đến đúng địa chỉ  những bên có liên quan ( stack-holders). Đây được xem  là phương pháp thực hành marketing hướng đến việc thúc đẩy các thương hiệu  tác động đến những vấn đề cốt lõi của cuộc sống hàng ngày đang diễn ra xung quanh chúng ta ở bất cứ nơi đâu: khoảng cách giàu nghèo,  sự khác biệt lớn của các nền văn hóa, trình độ dân trí   cũng như những vấn nạn đe dọa nghiêm trọng đến môi trường sống cả thế giới.... Bên cạnh những tác động trên bình diện kinh tế vĩ mô kể trên, phương pháp thực hành marketing này  thật sự là một phương tiện giao tiếp  nội bộ nhắm vào việc cung cấp giá trị tốt hơn đến nhân viên, cổ đông và các đối tác của doanh nghiệp.

Như những gì chúng ta chứng kiến gần đây thì có thể nói hoạt động marketing có vẻ như đang mất đi sức ảnh hưởng của nó đến người tiêu dùng ( NTD), lý do vì NTD ngày càng được trang bị kiến thức  và quyền lực nhiều  hơn bao giờ hết. Phương pháp thực hành marketing 3.0 sẽ làm rõ hơn cách thức để marketing có thể giành lại sự tín nhiệm cũng như sức ảnh hưởng bên trong lẫn bên ngoài phạm vi doanh nghiệp.